Card image cap

KHÁM PHÁ NGÔI MIẾU CỬA ĐẠI NHA TRANG

Nhiều lần chạy xe vô định trên đường Trần Phú bọc qua cầu Xóm Bóng, tôi thoáng thấy hai tòa nhà nhấp nhô trên mỏm đá: tòa bên trái cách không xa Tháp Bà, điểm xuyết bởi ngôi miếu thờ màu mỡ gà đậm và chiếc ban công trăng trắng bên những cây cành được tỉa tót, gợi cảm giác được thăm viếng thường xuyên; Bên phải là hai toà miếu đôi nổi bật trên dúm đá con con chồng lên nhau, mái thẫm màu gạch cũ. Cả hai toà nhà có biểu tượng lưỡng long chầu nhật, tái khẳng định chức năng thờ tự. Không rõ bên trong có người sống hay không. Việc nhang khói có thường xuyên không. Bên trong các ngôi miếu cửa biển Nha Trang thờ các vị thánh thần nào. Đó là những câu hỏi cứ hiện lên thường trực trong đầu tôi ...
Mieu cua bien Nha Trang (1)

Ngôi Miếu màu mỡ gà trên đường ra Cửa Đại Nha Trang được cư dân lân cận gọi là Gành Cậu.
Ảnh: Lê Minh Hiếu chụp năm 2024  
Mieu Cua Dai Nha Trang 2 (2)

Miếu Cửa Đại Nha Trang nhìn từ Cầu Xóm Bóng Nha Trang. Ảnh: Lê Minh Hiếu chụp năm 2024 

Thông tin sơ khởi về ngôi miếu ngoài Cửa Đại (Cù Huân) Nha Trang: 

Trao đổi với nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Nghệ, tôi được biết trước năm 1975, ngôi miếu ngay cửa Đại thờ Bà Chúa Lạch (ngụ ý thờ bà mẹ sống nơi luồng lạch, mong bà trợ giúp cư dân vãng lai khỏi sóng to gió lớn). Tìm đọc nguồn tư liệu tiếp cận được, tôi không tìm ra thông tin chính thống về ngôi miếu màu mỡ gà (mà vài cư dân gọi là Gành Cậu), còn thông tin về ngôi miếu ngoài Cửa Đại rất khiêm tốn, chỉ có 1 đoạn tả về ngôi miếu nằm “Tại hòn đảo nhỏ ngay cửa biển thuộc phường Vĩnh Thọ” (nay thuộc phường Bắc Nha Trang), có đề cập đến “Bà Chúa Hòn”, “Miếu Bà Hội đồng thuỷ phủ” và “Thánh Mẫu Hội đồng thuỷ phủ” của tác giả Trần Thị Thanh Loan trong Tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển tại thành phố Nha Trang Khánh Hoà (NXB Thanh Hoá, 2024). Đoạn trích như sau “Miếu Bà Hội đồng thuỷ phủ tọa lạc tại tổ dân phố Cù Lao Hạ, cư dân thờ Bà và Cô - Cậu (hai người con của Bà) dưới hình thức phối thờ/phối tự”. [1] Tác giả chú thêm Cô - Cậu ở đây là Cô Bơ thủy phủ hách danh công chúa và Cậu Bơ hoàng.” [2]
Ngôi miếu được miêu tả “là ngôi miếu nhỏ dạng thủ kỳ, miếu cao khoảng 4 m, rộng 1,5m; tọa lạc trong khuôn viên có tổng diện tích khoảng 1.000 m², gồm hai tầng: tầng trên thờ Bà, tầng dưới ngăn làm hai gian thờ, gian bên phải thờ Sơn lâm, gian bên trái thờ Cô - Cậu. Miếu tọa lạc trên một hòn đảo có tổng diện tích khoảng 1.000m², cách bờ khoảng 0,5 hải lý; là một trong những đơn nguyên kiến trúc nằm trong tổng thể kiến trúc của miếu Cửa Biển” [3] 

Lịch sử ngôi miếu được đề cập khá ngắn gọn: “Ban đầu, miếu Bà Hội đồng thuỷ phủ được xây dựng tại Hải đội 8, cạnh cửa sông Cái Nha Trang, ngay cửa biển, nơi có nhiều thuyền bè neo đậu và qua lại, trên gò đất cao, rộng khoảng 50m², mặt tiền hướng biển; được bao quanh bởi tường rào chắc chắn. Năm 1968, dân làng lấn chiếm đất làm nhà nên miếu dời đến vị trí ngày nay - cửa biển Nha Trang” [4] 
Mieu Cua Dai Nha Trang

Cận cảnh gian thờ phía trên của Miếu Bà Chúa Hòn/Miếu thờ Thánh Mẫu Hội đồng Thuỷ Phủ. 

Ngoài ra, tác giả có phân biệt 2 tước hiệu được nhắc đến là Thánh Mẫu Hội đồng Thuỷ Phủ và Bà Chúa Hòn: “Thánh Mẫu Hội đồng thủy phủ là một dạng tín ngưỡng thờ Mẫu, do người Việt ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên lập nên từ khi nào không ai còn nhớ rõ. Tín ngưỡng này có sự ảnh hưởng của văn hóa Chăm rồi đi vào cộng đồng cư dân người Việt ở Nha Trang theo những đợt di dân khác nhau trong lịch sử. Chính vì Nữ thần cai quản hải đảo, cù lao nên người dân biến Thánh Mẫu Hội đồng thủy phủ dưới tên gọi là Bà Chúa Hòn. Đây có thể là một dị bản biến thể của Thiên Y A Na và hai người con của Bà là công chúa Quý, hoàng tử Trí.” [5]

Tác giả Trần Thị Thanh Loan [6] trích Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh của Dương Hoàng Lộc về Văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre giải thích thêm về tín ngưỡng “Thánh Mẫu Hội đồng thuỷ phủ”: “Thánh Mẫu Hội đồng thủy phủ là những vị thần dưới nước với đại diện là Bà Thủy Long. Bà được gọi bằng nhiều tên khác nhau như Bà Thủy Tề, Bà Thủy, Thủy Đức thánh phi, Thủy Long thần nữ... Bà là vị thần vừa ác, vừa thiện. Vị thần này thể hiện tính lưỡng diện, một mặt, Bà là nơi ngư dân gửi gắm sự bảo trợ của mình trong mỗi chuyến đi biển đầy thách thức và may rủi, mặt khác, nếu làm điều gì "xúc phạm" tới Bà... thì Bà lại trở thành vị ác thần đáng sợ”! [7] 

“Cư dân ven biển Nha Trang, nhất là những người có nghề đánh bắt hải sản và kinh doanh buôn bán rất tin tưởng sự linh thiêng và quan huyền bí của Bà. Theo người dân địa phương, Bà nhiều lần hiển linh, giúp ngư dân an toàn khi gặp nạn trên biển, ngư dân ở các làng chài Cù Lao Hạ, Xương Huân đã xin phép được rước tượng Bà về làng chài mình để thờ tự; và, nhờ Bà “che chắn" mà nhiều năm không có bão đổ bộ vào Nha Trang, ngư dân đánh bắt cá gặp nạn được Bà chúa đảo cứu giúp. [8] 

Như vậy, theo tác giả, Bà Chúa Hòn trên hòn đảo nhỏ (tại cửa biển thuộc phường Vĩnh Thọ nay là phường Bắc Nha Trang) là sự tiếp biến văn hoá sau những đợt di dân vào Khánh Hoà của tín ngưỡng Thánh Mẫu Hội đồng thuỷ phủ, đại diện là Bà Thuỷ Long, ngoài ra, Bà Chúa Hòn có thể là biến thể của tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na tại Khánh Hoà. 

Mieu Cua Dai Nha Trang (11)
Cận cảnh gian thờ phía dưới thờ Cô - Cậu (chữ Hán đọc là Cậu nương). 

Cô và Cậu trong tín ngưỡng Thánh Mẫu Hội đồng Thuỷ phủ là Cô Bơ thủy phủ hách danh công chúa và Cậu Bơ hoàng, và là dị bản biến thể của công chúa Quý, hoàng tử Trí trong tín ngưỡng thờ Mẫu Thiên Y Ana. [9] 

Mặc dù ít ỏi, nguồn tài liệu này giúp tôi mường tượng ra hệ thần linh được thờ tự trong ngôi miếu án ngữ ngay cửa Đại Cù Huân gồm bà chúa Lạch/Bà Chúa Hòn/ Thánh Mẫu Hội đồng Thủy phủ, Cô - Cậu, và chúa Sơn lâm. 

Một chiều trước tiết Thanh Minh năm 2024, tôi tình cờ đi ngang cầu Xóm Bóng. Hướng ra miếu, tôi biết trái tim mình đang ngân vang nhịp đập cảm xúc chứ không đơn thuần là nhịp đập cơ học. Bóng chiều loang từng vệt trên biển, tạo nên những nếp gấp xám đen đều đặn, theo sóng lan từ phía cửa biển tiến về phía tôi tựa lời chào. Tiếp đó, từng dải ánh sáng hồng cam từ khối sáng trên đầu tôi theo sóng hối hả xoá bằng hết các vệt chấm li ti chòng chành trên biển, hừng lên một màu ngắt xanh. Phút chốc, ngôi miếu hiển hiện rõ trước mắt tôi, giữa những bản nhạc sóng nhịp nhàng, trong một hình hài cực kỳ thanh bình. Một trong những điều gắn kết tôi với mảnh đất Nha Trang này - có lẽ là những khoảnh khắc giao hòa với đất trời thế này. Không phải nét oai linh, không phải sự ma mị. Mà là những vòng ôm hiền hoà. Tựa như mẹ thiên nhiên đang thông qua cảnh vật trước mặt ban cho tôi một món quà.  
Mieu Cua Dai Cu Huan Nha Trang

Miếu Cửa Đại Nha Trang Ảnh: Tôn Nữ Bích Vân

Tôi chạy một mạch xuống chân cầu, hỏi các chủ thuyền cách ra Miếu Cửa Biển Nha Trang. Họ đáp lời tôi rằng: “Miếu Ông thiêng lắm, có đến mười mấy án thờ, lần nào thắp nhang xong cũng rợn sống lưng”. Các chủ xuồng còn gợi ý “trên đường ra miếu Cửa Đại, có thể ghé thắp nhang tại Gành Cậu". Tôi nghe chữ được chữ mất, nhưng bởi lòng đã quyết đi nên hẹn sáng mai quay lại. Tôi không đi tìm phép màu. Tôi chỉ muốn đến nơi án ngữ cửa biển Nha Trang, cảm nhận sự giao hoà của thiên nhiên ngay nơi sông gặp biển, thăm nơi che chắn trú ngụ, giữ bình an cho biết bao tàu bè cả trăm năm nay. 

Bát Hải Động Đình Thuỷ phủ toàn để bài vị

Nha Trang 7h30 sáng bên dưới chân cầu Xóm Bóng thật bình dị, yên ả. Là những con tàu xanh màu trời nằm xoay đủ hướng, thoả sức nghỉ ngơi sau những đêm dài đánh bắt. Là các bè đựng đồ sinh hoạt đã sờn màu vì quen hơi biển. 

Tôi nhận ra một đường lằn hằn sâu giữa hai khung cảnh trên - dưới cây cầu. Thành phố mới đây thôi còn chen lấn rộn rã cho kịp vào lớp vào làm giờ lại êm đềm, tách bạch, không phiền lòng ai. Mới thấy thế giới có thú vị và rộng lớn hay không phần đa là do tôi có dám bước ra khỏi những lối nhỏ ì ạch quen thuộc để xích vào đường chân trời mới - vốn luôn tồn tại ngay cạnh mà tôi không sao nhìn ra. 

Tiếng máy nổ tắt hẳn khiến tôi trở lại với hiện thực. Thuyền dừng tại mặt sau miếu. Người thủ am đang đưa tay chờ đỡ tôi lên bờ. 

Ở giữa là ngôi miếu chính - toà nhà có biểu tượng Lưỡng long chầu nhật mà tôi hay nhìn thấy từ xa, với nhiều án thờ; gần nhất là án ông hổ có chú chúa tướng, sau lưng là tượng Quan Âm Nam Hải hướng ra biển (xoay lưng vào gian miếu chính), hai bên Quan Âm Nam Hải là ông thiện ông ác, không xa là án thờ Địa Tạng. Ngoài cùng là con thuyền rồng cung nghênh Phật A Di Đà. Tôi hơi khựng lại. Hình như đây là nơi thờ tự Phật giáo, khác xa những gì tôi đã hình dung. Ông hổ/Chúa tướng (thường biểu tượng cho sơn lâm) không đặt cùng án thờ Cô - Cậu như tài liệu tôi đọc được. 
Mieu Cua Dai Nha Trang (2)

Mieu Cua Dai Nha Trang (3)
Các gian thờ bên ngoài chính cung ngôi miếu Cửa Đại. Từ ngoài vào trong (Ngoài cùng là thuyền rồng chở Phật A Di Đà, án thờ Quan Âm Nam Hải, Địa Tạng Bồ Tát, ông thiện ông ác và chúa Tướng). Ảnh Lê Minh Hiếu chụp 2025

Ông từ thắp cho tôi một bó nhang, nhắc tôi đi hết một lượt. Lúc bấy giờ tôi mới để ý kỹ cấu trúc của ngôi miếu thờ. Phần bên trái (của tượng Quan Âm) là miếu thủ kỳ thờ Bà Chúa Hòn như tác giả Trần Thị Thanh Loan đã tả: gian trên là tượng Thánh Mẫu; gian dưới thờ cô cậu bên trái, bên phải thờ Đại Sĩ. Miếu thủ kỳ không nằm trên 1 tòa nhà độc lập mà là phần bổ sung của toà miếu chính. Phần bên phải tượng Quan Âm là nhà thờ Tiền hiền hậu hiền, phía trước lại có một miếu dạng thủ kỳ đặt tượng Năm Mẹ Ngũ Hành. Như vậy, hai toà miếu đôi nổi bật trên dúm đá mà tôi nhìn thấy từ xa là do toà miếu chính (với miếu thủ kỳ thờ Bà chúa Hòn) và toà Tiền hiền Hậu hiền (có miếu thờ Năm Mẹ Ngũ Hành) tạo nên. Hai toà miếu cách nhau một lối đi đủ cho 1 người trưởng thành di chuyển.

Mieu Cua Dai Nha Trang (5)Trước miếu Tiền Hiền Hậu Hiền là một thủ kỳ khác thờ Năm Mẹ Ngũ Hành. Ảnh Lê Minh Hiếu chụp 2024 

Mieu Cua Dai Nha Trang (6)
Bàn thờ Tiền hiền bên trong. Ảnh Lê Minh Hiếu chụp 2024

Mieu Cua Dai Nha Trang (7)
Bàn thờ Hậu hiền bên trong. Ảnh Lê Minh Hiếu 

Bước vào toà nhà Tiền hiền hậu hiền, tôi dừng lại ở tấm bảng “di linh tạ dị” đoán định tên những người được ghi công phần đa là nam giới. Năm mất của họ từ 1999-2011; Cạnh đó có 1 bảng tạc đã phai màu ghi năm quyên góp xây dựng miếu là 1995-1996-1997; "Nguyễn Văn Quế Ban Vạn Lạch". Vậy là miếu đã được dựng lại cách đây 30 năm. Vài vị hậu hiền mất chỉ sau 2 năm dựng xong miếu. Cụm từ “Ban Vạn Lạch” khiến tôi nghĩ về Bà Chúa Lạch mà nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Nghệ từng nói. Phải chăng từ năm 1968 sau khi dời đến vị trí hiện tại và dựng miếu, các vị hậu hiền mặc dù vẫn thờ kính Bà Chúa Lạch hay Bà Chúa Hòn nhưng vẫn phối thờ thêm các vị thần linh khác như Năm Mẹ Ngũ Hành và các vị nơi cửa Phật? Song giả định này chưa thuyết phục lắm. Vì nếu Bà Chúa Lạch hay Bà Chúa Hòn là đối tượng thờ tự chính thì Bà phải được đặt trong chính điện, không thể đặt trong miếu thủ kỳ để phối thờ.

Nghĩ vậy, tôi liền mạnh dạn khám phá ngôi miếu chính (sau lưng Quan Âm và chúa tướng). Đáng lý đây nên là nơi đầu tiên tôi ghé thăm mới phải. Nhưng cảm giác choáng ngợp trước hệ thần linh đa dạng nơi tiền sảnh miếu đã khiến tôi chần chừ. Đến trước toà miếu chính, dòng chữ Hán đập vào mắt tôi: 廟德順門 - Môn Thuận Đức Miếu - (tạm dịch: lối vào thánh địa tuân giữ điều ngay lành). Tên gọi không có bất cứ gợi mở về vị thần linh chính được thờ trong miếu. Bên trong chính điện có ông thiện ông ác, tả ban - hữu ban, chính cung đặt một chiếc mão lớn. Không thấy chữ Thần viết lớn như tại các đình/miếu khác. 

Mieu Cua Dai Nha Trang (8)

Môn Thuận Đức Hiếu. Ảnh: Lê Minh Hiếu chụp 2024

Mieu Cua Dai Nha Trang (10)

Chính điện Môn Thuận Đức Hiếu - ngôi miếu ngoài Cửa Biển Nha Trang thờ một chiếc bài vị và một chiếc Mão lớn. Ảnh Lê Minh Hiếu chụp 2025


Tôi thắp hương cung kính chào thần rồi xin phép ông từ xem chữ Hán khắc trên bài vị. 

Bai vi chinh dien Mieu Cua Dai Nha Trang

Bài vị chính cung Môn Thuận Đức Hiếu - Ngôi Miếu Cửa Đại Nha Trang

Nguyên văn 狂气捌海x庭會全水底安排位

(Dịch nghĩa: Cuồng khí bát hải x đình hội toàn thủy để an bài vị). Tôi tạm gán nghĩa chữ x là động (trong Động đình 洞庭), hẹn một dịp chữ nghĩa Hán Nôm tiến bộ hơn sẽ tra cứu lại. 

Bài vị cho thấy Môn Thuận Đức Miếu là nơi thờ toàn thể các vị thuỷ thần Bát Hải x Đình. Mặc dù vẫn là Hội Đồng Thuỷ Phủ; nhưng sự nổi trội của tính nam trên bảng "di linh tạ dị" trong khuôn viên miếu khiến tôi thiên về suy nghĩ chiếc Mão tượng trưng cho Vua Cha Bát Hải Động Đình hơn là Thánh Mẫu Hội đồng Thủy phủ/Bà Thủy Long hoặc Mẫu Thoải. Phía sau chiếc Mão, tôi chỉ đọc được 1 vế đối - 近水樓臺先得月 - dịch nghĩa: Lầu gần nước thì được thấy trăng trước" (mối quan hệ hay vị trí gần gũi sẽ có nhiều ưu thế/lợi ích hơn nhân tố ở xa) kiểu gần trăng thì sáng; chầu bên thần thì được bình an. 

Tôi hỏi ông từ ngôi Miếu Cửa Đại Nha Trang này thờ Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình phải không, ông bảo ông chỉ chăm nom hương khói chứ không rành lịch sử ngôi miếu, cũng không biết Hán tự nên không rõ bài vị thờ ai, chỉ biết mười mấy án thờ ở đây rất linh thiêng. Nhiều người đến khấn đều được nhậm lời. Ông có kể về một vị bác sĩ ở HCM dạo trước hay ghé thăm miếu, nhưng một vài năm gần đây không thấy nữa. Lúc bấy giờ tôi mới nhớ lại lời giới thiệu của các chủ thuyền dưới chân cầu Xóm Bóng rằng ở miếu Cửa Đại có “mười mấy án thờ, thiêng lắm”. Họ cũng nói đây là miếu Ông, không nhắc đến miếu Bà nhưng nhấn mạnh miếu có thờ Bà/ Mẫu. 

Sau khi định thần lại, tôi rời chính điện, bước ra tiền sảnh. Lúc bấy giờ tôi mới để ý thấy trên cây cột góc tường có một thông báo in trên giấy A4 kêu gọi xây nhà vệ sinh Miếu Đóng Đá. Như vậy Miếu Đóng Đá là tên Việt ngữ (do Ban quản lý chính quyền đặt), Môn Thuận Đức Miếu là tên Hán tự của ngôi miếu này. 

Tôi bước đến miếu thủ kỳ thờ Bà Chúa Hòn được ghi lại bằng lời và hình ảnh trong Tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển tại thành phố Nha Trang Khánh Hoà. Mặc dù có đôi chút sai khác (là gian dưới bên phải Bà Chúa Hòn không thờ Sơn Lâm mà khắc chữ Đại Sĩ - vốn là vật cưỡi của thần thánh) nhưng các đặc điểm khác khá giống với mô tả trong sách. Đặc biệt thú vị là tượng cậu trong gian thờ cô cậu mặc áo xanh cầm con cá lớn trên tay, cô mặc áo trắng gợi về thoải phủ trong tín ngưỡng Tứ Phủ.

Tôi còn lưu tâm đến bức ảnh ngay sau tượng Bà Chúa Hòn. Bà ngồi trên một con voi, hai bên có hai thị nữ theo chầu.
Tranh Tay Vuong Mau tai Mieu Cua Dai Nha Trang

Lục tìm trong trí nhớ, nữ thần ngồi trên voi được thờ vọng ở Việt Nam ngoài Hai Bà Trưng, Bà Triệu còn có bà Tây Vương Mẫu. Trong sách Tín ngưỡng dân gian Huế (Trần Đại Vinh, NXB Thuận Hoá năm 1995) có chia sẻ về tín ngưỡng thờ vật linh ở Huế, trong đó “Voi gắn liền với hình tượng Tây Cung vương mẫu. Một số tranh tượng thờ, thường vẽ bà ngồi ngự trên voi. Vì thế, tại các đền, miếu, am thờ Thánh mẫu, thường tạc hoặc đắp tượng hai con voi chầu hai bên.” [10] Ngoài ra, trong chương “Thờ cúng theo giới tính và lứa tuổi", ông cho rằng tại Huế những lễ nghề chính do đàn ông làm chủ lễ, riêng lễ cúng Bà bổn mạng và các lễ cúng liên quan đến thai sản của phụ nữ là “hoàn toàn thuộc về nữ giới.” Qua đó, ông giới thiệu sâu hơn về vị thần bảo hộ nữ giới - Tây cung vương mẫu bổn mạng thánh đức tiên bà (còn gọi là Đoài Cung thánh mẫu). Bà là vị thần bảo hộ riêng cho nữ giới, người con gái trưởng thành cho đến người phụ nữ 60 tuổi (trước khi ra lão) đều thờ Bà, theo tín ngưỡng dân gian Huế. [11] 

Sách còn mô tả địa điểm thờ tại nhà, thời gian thờ (hằng tháng, hằng năm, và tục dâng thành 3-5 năm), lễ vật dâng cúng. Đặc biệt, sách có đoạn mô tả tượng Bà Tây Vương Mẫu như sau “chân dung tượng trưng khoác phẩm phục, đội mão uy nghi, ngự trên một con voi trắng”. [12] Bên cạnh đó, có 1 điểm rất đáng chú ý là trong danh sách thần hiệu dâng cúng trong lễ cúng thành (tạm hiểu là lễ trưởng thành) của người phụ nữ Huế có “Tây cung vương mẫu bổn mệnh chúa Tiên; Thủy phủ chúa Động Đình Bắc hải đế quân, Thủy phủ Phù tang đại đế” [13]; còn trong đoạn "Văn thờ tín ngưỡng Mẫu và chư vị tại Huế", cũng có đề cập đến Tây cung vương mẫu bổn mạng chúa Tiên, Ngũ vị thánh bà trong cõi Trung thiên. Tác giả nhấn mạnh, “Huế đã phân lập khái niệm thiên phủ ra hai cõi: thượng thiên và trung thiên. Khái niệm địa phủ lại được chuyển hóa thành khái niệm thượng ngàn. Trung thiên được hiểu là cõi trời trung gian giữa cõi trời thượng thiên và thế gian. Trong bốn cõi này, có hai cõi chi phối trực tiếp vận mạng con người: cõi trung thiên nắm giữ bổn mạng, quy định thọ, yểu; cõi thủy phủ lại chi phối “căn”của con người, đặc biệt là nữ giới (mệnh tại thiên tào, căn vu thủy giới). Do đó thánh mẫu của hai cõi này, thường được dân gian thờ cúng trực tiếp tại nhà mình: Tây cung Vương mẫu, thờ thường xuyên tại tran bà, Thủy phủ Long cung thánh mẫu (cùng các thủy thần khác) được dâng cúng trong lễ thành định kỳ 3 năm, 5 năm của phụ nữ. Ông còn đưa ra lý do giải thích nguyên nhân người phụ nữ Huế trong lễ cúng thành lại dựng 3 bàn thờ - khấn 3 con quỷ gồm Phạm Nhan, Phạm Điệt và Phạm Minh. Đây là 3 con quỷ dữ từng bị Trần Hưng Đạo bắt sống chém đầu, vứt thây xuống biển. [14] Nhưng các linh hồn này khi cầu khấn vua cha Long vương thì được Long vương động lòng, dùng phép thuật biến y thành ba con quỷ dữ, cho trở lại quấy phá dân Việt, chuyên trêu ghẹo đàn bà, con gái. Từ đó mà muốn trừ giải, dân gian phải dâng cúng ở điện đức thánh Trần, hoặc dâng lễ thành lên vua Thủy phủ, Tây cung vương mẫu và chư vị thánh bà... để cầu bảo hộ. [15] Ngoài ra, phụ nữ Huế còn có thói quen sau khi ra lão sẽ “đưa ảnh Bà (tức Tây Vương Mẫu) ra tàng trữ ở một nơi thanh tĩnh, như cột mốc, gốc cây lớn hay nền am miếu”. [16]

Trên mỏm đá bám mùi biển, một dòng nước ngọt rỉ ra, khiến vị hăng hắc ngồn ngộn trong không gian loãng ra. Theo cách giải thích của nguồn tài liệu này thì bức ảnh (đặt sau Bà Chúa Hòn) nhiều khả năng là Tây Vương Mẫu. Nếu bức ảnh được đặt ngay từ đầu thì hệ thần linh tại Miếu được lý giải theo nghi thức lễ thờ cúng bổn mạng người phụ nữ “mệnh tại thiên tào, căn vu thuỷ giới” với bài vị toàn thể các vị thuỷ thần Bát Hải x Đình … ở chính điện, sự hiện diện của Ngũ Vị Thánh Bà và Tây Vương Mẫu ở hai miếu thủ kỳ. Tuy nhiên cũng có thể bức ảnh được nhà nào đó đem ra tàng trữ sau khi ra lão, chứ tran thờ Tây cung vương Mẫu phải hướng về phía Tây, không nhìn ra phía biển đông như hiện tại. Và tôi cũng chưa tìm thấy ghi chép về con của bà. Lại còn sự chi phối của tính nam trong bàn thờ Hậu hiền (Hậu Hiền phần đa là nam giới sẽ không dựng bàn thờ theo nghi thức cúng lễ bổn mạng của nữ giới?!). Cũng không có thông tin quê quán của các vị Hậu hiền (không tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng tín ngưỡng Huế lên họ). Còn hệ tượng Phật được đắp ngoài tiền sảnh, tất cả có mối quan hệ với nhau không? 

Tôi lại hỏi ông từ các án thờ Phật Bà Quan Âm Nam Hải, án Địa Tạng và con thuyền rồng chở Phật A Di Đà tiếp dẫn có được xây cùng lúc với ban thờ trong chính cung không. Ông từ im lặng thay lời đáp. Tôi đành tự lý giải kiểu du di cười trừ cho qua chuyện, "chắc vừa thờ Bà vừa thờ A Di Đà tiếp dẫn và Địa Tạng để cứu rỗi cho các vong hồn, còn Phật Bà Nam Hải đoái thương người còn sống"

“Vậy đi, chứ không hiểu hết được.”
Mieu Cua Dai Nha Trang 3

Cảnh thuyền về từ cửa biển Nha Trang


Lời theo lời, nép vào khói hương xoay từng vòng rồi tan vào gió. Lúc bấy giờ tôi mới kịp nhìn thấy mớ dây chằng chịt giăng trên chiếc thuyền đánh cá đậu gần đó. Thật đúng hệt như mớ suy nghĩ đan trong lòng tôi giữa khung cảnh bạt ngàn khói hương. Cả nghìn câu hỏi xuất hiện rồi lại chìm nghỉm tựa các đầu sóng vỡ ra, mất hút sau khi tìm về đống đá… Cư dân ven biển có thể sống cùng biển, ngưỡng vọng biển chứ không thể hiểu biển. Bởi lòng biển biếc sâu luôn dìm khuất che giấu biết bao vật thể hữu hình quanh mình. Đến chính biển cũng quên đi những tầng sâu năm tháng mình bồi lấp vì mải đón tiếp những đợt sóng theo sau.

Còn nhớ câu chuyện truy tìm bà chúa chợ Phủ Quốc của nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Tiến. “Gọi là ngôi đình/ đền bởi đó là tổ hợp đặt cạnh nhau, đình thờ vọng ngài Lữ Gia và đền, mà giờ đây gọi là cung thờ thánh mẫu Liễu Hạnh." [17] Đó là “tri thức phổ biến" - là cách người dân quanh chợ trả lời khách vãng lai về ngôi đền. Các cụ ông thuộc giới tinh hoa quanh chợ Phủ Quốc - những người nắm giữ quyền lực tri thức bản địa, thường nhấn mạnh đình là chính, cung thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh là phụ. [18] Tuy nhiên, một lần đến quán bún nằm ngay bên hông cung thờ Mẫu Liễu Hạnh, nhà nghiên cứu đã tiếp xúc với một cụ bà 80 tuổi. Trao đổi thì biết, ngày trẻ, cụ rất mê “xem gọi hồn ở đền Bà Chúa Chợ đến mức “hở ra là chạy đo xem” và “thích đến mê mẩn, mẹ chồng cần tung cứ lên đến đền là thấy”. [19] Lần hồi tìm hiểu, hoá ra “chính cung thờ thánh mẫu Liễu Hạnh ngày nay, thời xưa chỉ được người đi chợ biết đến với cái tên quen thuộc: bà chúa chợ. Ở đó, thuộc khuôn viên đền Bà Chúa là nơi mà ăn mày, ăn xin tụ về ngủ ở hai bên cầu chợ. Trong đền có 2 thầy bói, hai bà đồng. [20] "Bà đồng muốn hồn nhập về thì miệng khấn “Ông ơi hôm nay ông về đi chợ, ứng nghiệm thì hồn nhập vào bà đồng ở đền. Tay bà cầm quạt, che miệng, phe phẩy. Bà phán chuyện âm dương trong con mắt say mê của đàn bà con gái hàng chợ mê đồng, cốt”. [21]

Con trai bà cụ, nằm trong nhóm có công “phát hiện ra Bà Chúa Chợ chính là Thánh Mẫu Liễu Hạnh” nên luôn khẳng định không có Đền Bà Chúa Chợ, chỉ có cung Mẫu. Cùng với giới tinh hoa trong làng, các ông đổi tên “đền" Bà Chúa chợ thành “cung" Bà Chúa Liễu Hạnh nằm phụ bên hông đình chính”. “Với sự “chuẩn định tên gọi" được tạo ra bởi những người đàn ông phụ trách đình/cung ở đây, người dần dần quen tên gọi mới là cung Bà Chúa liễu Hạnh, hay đơn giản, cung Mẫu”. Cung có “có bài vị khắc tên rõ ràng". Nhưng với bà cụ “ Suốt bao nhiêu năm, bọn tôi có biết Bà Liễu Hạnh nào đâu, chỉ biết đó là bà Chúa Chợ, khấn thì khấn Bà Chúa Chợ. Các anh đi đem tượng ở Nam Định về thờ nói là Bà Liễu Hạnh thì bọn tôi biết Bà Liễu Hạnh, chứ ngày xưa chỉ gọi là Bà Chúa Chợ". [22] "Sự thực tồn tại hai cộng đồng tưởng tượng khác nhau về Bà Chúa liễu Hạnh, được đảm bảo bằng truyền thống văn tự Hán Nôm được các ông [từ trung đại] truyền lại. Các bà, chỉ biết đấy là Bà Chúa Chợ, một vị thần cai quản chợ Phủ Quốc." [23] "Sự thắng thế của nam quyền ở làng - như một truyền thống mang “chiều dài lịch sử" - đồng nghĩa với sự đánh dẹp niềm tin về bà chúa Chợ thay thế bằng một bà chúa sang có tên Hán Việt thuộc tứ bất tử nổi danh ở châu thổ. Các cụ bà vì thế, giờ chỉ nhớ lại chuyện cũ Bà Chúa Chợ khi trao đổi với người thăm hỏi. Đa phần người phần người ở chợ Phủ bây giờ, chỉ còn biết đấy là cung Bà Chúa Liễu Hạnh.” [24]
"Người hàng chợ giờ đã quên Bà Chúa Chợ, cộng đồng tưởng tượng về Bà Chúa Chợ cai quản khu chợ Phủ Quốc Oai giờ đang thu hẹp dần. Nó chỉ còn sống động ở những cụ bà cao tuổi, độ tuổi trung bình U80, những người đàn bà ít tuổi hơn từ khoảng 50-70 vẫn nhớ cón đền Bà Chúa Chợ nhưng niềm tin mờ nhạt hơn vì thời họ chạy chợ là suy tàn của bà chúa..” [25] Theo Nguyễn Mạnh Tiến, "Đây là “một thắng thế của quyền uy nam giới ở xã hội việt Nam trong việc tạo dựng các tri thức” và "các nguyên tắc Trung Hoa (chủ yếu nho giáo) luôn có xu hướng ảnh hưởng mạnh hơn ở người đàn ông. Trang phục, văn hoá và niềm tin của đàn bà bao giờ cũng giữ các phẩm chất bản địa lớn hơn cánh đàn ông.” [26] 

Tôi trở lại thuyền. Hồn tín ngưỡng của địa điểm tâm linh gắn liền ít nhiều vào cuộc đời, niềm tin của những người lập miếu, thủ am và tín đồ năng lui tới. Vẫn là Mẫu nhưng hình tượng Mẫu có thể thay đổi theo tâm tư, tình cảm nguyện vọng và hình dung của cộng đồng tín ngưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. Họ có cách thể hiện vẻ đẹp của tín ngưỡng ấy thông qua thực hành tín ngưỡng và việc phối thờ, mặc cho những đánh giá, phỏng đoán của kẻ ngoại đạo như tôi. Tôi dặn lòng không thể tiếp cận vẻ đẹp tín ngưỡng tại Miếu Cửa Đại Nha Trang cũng như muôn vàn địa điểm tâm linh khác bằng định kiến sẵn có. Không thể áp tín ngưỡng và những đúc kết từ chồng tài liệu không đầu không cuối của tôi lên tập tục chung quanh. Càng không thể bắt họ phải tin theo mình.

Tôi không đủ dữ liệu để hiểu được liệu cộng đồng Bà Chúa Hòn/Bà Chúa Lạch, Thánh Mẫu Hội đồng Thuỷ Phủ, hay Cộng đồng tín ngưỡng Bát Hải Động Đình Thuỷ phủ toàn để bài vị là tín ngưỡng nguyên thuỷ tại Miếu Cửa Đại Nha Trang. Nhưng nếu không có chuyến đi điền dã này, tôi sẽ không xây dựng thêm giả định tín ngưỡng nơi đây phỏng theo hoặc ít nhất là chịu ảnh hưởng bởi tục thờ Bổn Mạng của người phụ nữ Huế (thờ Tây Vương Mẫu, Năm Bà Ngũ Hành, Bát Hải Động Đình chư vị) như vừa trình bày. Tôi chỉ biết ghi chép lại cẩn thận những điều mắt thấy tai nghe, những phỏng đoán, xúc cảm và cả kiến thức mình tích hợp được, rồi cất lại cho con cháu mình. Như một lát cắt đương đại về hệ tín ngưỡng án ngữ nơi cửa biển thành phố. Biết đâu sẽ giúp gọi tên một lớp trầm tích đang phủ nơi Miếu Cửa Đại Nha Trang.

Thuyền đưa tôi đến Gành Cậu. Tôi đến thắp hương trước bàn thờ Mẫu Thoải cung. Vì ông từ không có ở gành, tôi đành biết thắp thêm hương tại các cung thờ Cô Bơ Thoải, Cô Năm Ngoại, Cô Sáu Thượng Ngàn, Cậu Út thuỷ cung, cậu tôn thần, cậu thiên sơn, mà không hỏi thêm được gì. 
Mau Thoai Cua bien Nha Trang

Mieu cua bien Nha Trang2

Tiếng sóng lần này bạt hết câu chuyện trên thuyền. Dắt chiếc xe máy trở về với guồng sống ồn ả trên cầu Xóm Bóng, lòng tôi còn lại một mớ bòng bong về hệ thần linh mình vừa tiếp xúc. Những cụm từ như Ngoại, tôn thần, thiên sơn… đang tạo nên những hình xoắn ốc... cuốn trôi tôi bay xa.

(Bắc Nha Trang, 26-27/09/2025) 

[1]. Trần Thị Thanh Loan, Tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển tại thành phố Nha Trang Khánh Hoà, NXB Thanh Hoá 2024, tr. 55
[2]. Trần Thị Thanh Loan, Tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển tại thành phố Nha Trang Khánh Hoà, NXB Thanh Hoá 2024, tr. 55
[3]. Trần Thị Thanh Loan, Tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển tại thành phố Nha Trang Khánh Hoà, NXB Thanh Hoá 2024, tr. 55
[4]. Trần Thị Thanh Loan, Tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển tại thành phố Nha Trang Khánh Hoà, NXB Thanh Hoá 2024, tr. 55. 
[5]. Trần Thị Thanh Loan, Tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển tại thành phố Nha Trang Khánh Hoà, NXB Thanh Hoá 2024, tr. 55. 
[6]. Tác giả Trần Thị Thanh Loan đang công tác tại Trung tâm Bảo tồn di tích tỉnh Khánh Hoà. 
[7]. Dương Hoàng Lộc, Văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008, tr.47. 
Trần Thị Thanh Loan, Tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển tại thành phố Nha Trang Khánh Hoà, NXB Thanh Hoá 2024, tr. 55 
[8] Trần Thị Thanh Loan, Tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển tại thành phố Nha Trang Khánh Hoà, NXB Thanh Hoá 2024, tr. 56 
[9] Chính tác giả Trần Thị Thanh Loan đã đặc biệt lưu ý với tác giả bài viết điểm này trong 1 lần gặp mặt trao đổi trực tiếp rằng trong tín ngưỡng thờ Mẫu Thiên Y Ana tại Khánh Hoà không gọi là cậu Tài cậu Quý như ở trong miền Nam, mà gọi là công chúa Quý và hoàng tử Trí. 
[10]. Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng dân gian Huế, NXB Thuận Hóa Huế 1995, tr. 87
[11]. Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng dân gian Huế, NXB Thuận Hóa Huế 1995, tr. 86 
[12]. Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng dân gian Huế, NXB Thuận Hóa Huế 1995, tr. 119  
[13]. Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng dân gian Huế, NXB Thuận Hóa Huế 1995, tr. 121 
[14] . Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng dân gian Huế, NXB Thuận Hóa Huế 1995, tr. 137 
[15]. Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng dân gian Huế, NXB Thuận Hóa Huế 1995, tr. 120 - 121 
[16]. Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng dân gian Huế, NXB Thuận Hóa Huế 1995, tr. 86
[17]. Nguyễn Mạnh Tiến, Sống đời của chợ, NXB Hội nhà văn, 2017, tr.243
[18]. Nguyễn Mạnh Tiến, Sống đời của chợ, NXB Hội nhà văn, 2017, tr.243
[19]. Nguyễn Mạnh Tiến, Sống đời của chợ, NXB Hội nhà văn, 2017, tr.245 
[20]. Nguyễn Mạnh Tiến, Sống đời của chợ, NXB Hội nhà văn, 2017, tr.245 
[21]. Nguyễn Mạnh Tiến, Sống đời của chợ, NXB Hội nhà văn, 2017, tr.246 
[22]. Nguyễn Mạnh Tiến, Sống đời của chợ, NXB Hội nhà văn, 2017, tr.246 
[23]. Nguyễn Mạnh Tiến, Sống đời của chợ, NXB Hội nhà văn, 2017, tr.246 - 247. 
[24]. Nguyễn Mạnh Tiến, Sống đời của chợ, NXB Hội nhà văn, 2017, tr. 247. 
[25]. Nguyễn Mạnh Tiến, Sống đời của chợ, NXB Hội nhà văn, 2017, tr. 247. 
[26]. Nguyễn Mạnh Tiến, Sống đời của chợ, NXB Hội nhà văn, 2017, tr. 247.

* Bạn thích bài viết này? Hãy cân nhắc ủng hộ cho Du lịch văn hoá để blog có thể tiếp tục hoạt động phi lợi nhuận

** Vui lòng đọc kỹ yêu cầu về Bản Quyền-Cộng Tác trước khi sao chép hoặc trích dẫn nội dung và hình ảnh của blog

55 lượt xem

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật